Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn viết văn miêu tả lớp 4

I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Môn Tiếng Việt có một vị trí rất quan trọng, là một môn học giúp hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng từ ngữ để học tập và giao tiếp, góp phần rèn luyện thao tác tư duy, tạo điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các môn học khác.Môn Tiếng Việt lại có nhiều phân môn khác nhau, mỗi phân môn chứa những nội dung, kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau; song phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn quan trọng nhất và khó nhất đối với học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 4. Nó trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng ngôn ngữ nói và viết, góp phần cùng với các môn học khác mở rộng vốn từ, rèn luyện khả năng tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, nhằm hình thành nhân cách con người. Ở lớp 4, văn miêu tả là dạng bài dựa vào những căn cứ quan sát được, cảm nhận được về đối tượng (cây cối, con vật, đồ vật) đã để lại ấn tượng rồi miêu tả. Từ những hình ảnh trực quan sinh động chuyển sang tư duy trừu tượng và viết thành ngôn ngữ. Đối với học sinh lớp 4 nói đúng, viết đúng, diễn đạt mạch lạc đã khó; vậy mà để làm văn hay có cảm xúc, giàu hình ảnh lại càng khó hơn nhiều. Để dạy tốt phân môn này, đòi hỏi người giáo viên phải luôn tìm tòi phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, tổ chức hướng dẫn các hoạt động học tập linh hoạt nhằm kích thích các em hứng thú học tập, lĩnh hội được kiến thức có hiệu quả.Xuất phát từ thực tế như vậy, là giáo viên đứng lớp, tôi luôn không ngừng nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học sao cho giảng dạy đạt hiệu quả. Vậy làm thế nào để dạy tốt phân môn Tập làm văn nhất là thể loại văn miêu tả nhằm góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt? Vì vậy tôi đã chọn sáng kiến: “Cách rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP.
1.Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Dạy học môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học gồm nhiều phân môn, nhưng Phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn khó, mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Nó có vai trò và vị trí quan trọng trong việc hoàn thiện và nâng cao dần kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Học sinh học tốt được phân môn Tập làm văn là giúp cho các em học tốt các môn học khác. Vậy dạy phân môn Tập làm văn là dạy các kiến thức và kĩ năng giúp cho học sinh phát triển ngôn ngữ, đồng thời giáo dục cho các em tình cảm trong sáng, rèn luyện khả năng giao tiếp góp phần giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt.
Mục đích của việc dạy văn miêu tả ở Tiểu học là giúp cho các em học sinh có thói quen quan sát, phát hiện những điều mới, thú vị về thế giới xung quanh, biết cảm nhận cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ, cuộc sống, biết rung động trước đối tượng được miêu tả. Rồi từ đó các em có cơ sở để tái hiện lại bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh vào bài văn miêu tả của mình. Nếu bài tập làm văn thiếu sáng tạo, thiếu cảm xúc, không dùng từ ngữ giàu hình ảnh thì bài văn trở nên khô khan, lủng củng. Vậy để làm được bài văn miêu tả hay, không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động của đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, tình cảm của mình đối với đối tượng miêu tả. Khi học phân môn Tập làm văn đòi hỏi học sinh phải có kiến thức sâu rộng , nắm vững mục tiêu chung của từng bài, có những hiểu biết cơ bản về nội dung bài học, có trí óc tưởng tượng thật phong phú, biết cách dùng từ viết câu phù hợp, viết bố cục rõ ràng, diễn đạt mạch lạc…Là một giáo viên giảng dạy lớp 4, bản thân tôi luôn trăn trở, tìm mọi biện pháp để tạo điều kiện giúp đỡ các em học tốt phân môn này và đạt hiệu quả là việc làm vô cùng cần thiết.
Qua quá trình giảng dạy nhiều năm lớp 4, tôi nhận thấy trình độ học sinh trong lớp không đồng đều, số lượng học sinh làm văn hay rất ít. Phân môn Tập làm văn lớp 4 vô cùng khó, mang tính trừu tượng cao nên phần lớn học sinh không thích học phân môn này.Học sinh làm bài diễn đạt còn lủng củng, chưa miêu tả để phân biệt đối tượng được miêu tả này với đối tượng khác. Những bài văn dạng này giống văn kể hơn là văn miêu tả.Sử dụng vốn từ của các em còn nghèo nàn nên dẫn đến diễn đạt chưa rõ ràng còn lủng củng, dùng từ còn lặp lại, sai nghĩa, sai lỗi chính tả trong bài Tập làm văn.Nhiều em chưa phân biệt được từ ngữ sử dụng trong văn nói và văn viết.
Còn đối với việc học của  học sinh, ngoài sách giáo khoa tiếng Việt và sách Tập làm văn thì hiện nay, ngoài thị trường có rất nhiều loại sách tham khảo cho học sinh, giúp các em có cái nhìn đa dạng, phong phú hơn. Song một số em còn lệ thuộc nhiều vào sách tham khảo… có tư tưởng ngại học, ỷ lại nên cách cảm nhận, cách nghĩ của các em không phong phú mà thường đi theo lối mòn, khuôn mẫu, tẻ nhạt. Các em chưa tích cực đọc sách tham khảo để trau dồi cách diễn đạt và cách hành văn lưu loát hoặc nếu có đọc, các em thường lệ thuộc vào bài mẫu, có thể chép vào làm bài của mình chứ các em chưa biết vận dụng, liên tưởng một cách sáng tạo và linh hoạt
Thực trạng của học sinh nêu trên tôi thiết nghĩ là do những nguyên nhân sau:
+ Đối với học sinh:
– Học sinh chưa biết quan sát đối tượng được miêu tả hoặc quan sát một cách qua loa và khi quan sát học sinh không ghi chép lại từng chi tiết cụ thể nên khi làm bài văn chưa đạt hiệu quả .
– Vốn từ của các em còn nghèo nàn, lại không biết sắp xếp như thế nào cho bài văn mạch lạc, đảm bảo bố cục và chưa biết cách chọn từ ngữ, hình ảnh miêu tả.Câu văn diễn đạt chưa đủ ý.
– Học sinh chưa biết cách lập một dàn bài cụ thể để tả.
– Học sinh chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật vào bài văn và chưa biết bộc lộ cảm xúc.
– Phần lớn học sinh trong lớp đều chưa có ý thức rèn luyện ở nhà ,sự học hỏi bạn bè còn hạn chế.
– Học sinh chưa thực sự yêu thích môn học.
+ Đối với giáo viên:
– Giáo viên chưa khơi gợi hết sự ham thích học phân môn Tập làm văn, chưa phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh, chưa bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt.
– Giáo viên chưa phân loại từng đối tượng học sinh trong lớp để có kế hoạch dạy học phù hợp.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
Từ những thực trạng nêu trên, trong thời gian giảng dạy trên lớp, bản thân tôi có những biện pháp như sau:
2.1.Tìm hiểu và phân loại đối tượng học sinh
Qua quá trình giảng dạy ở lớp,tôi đã cho học sinh khảo sát và căn cứ vào đó để phân loại từng đối tượng học sinh: học sinh năng khiếu, học sinh trung bình và học sinh yếu. Cụ thể:
Lớp 4C: 25 em Học sinh năng khiếu: 7/25
Học sinh Trung bình: 13/25
Học sinh Yếu : 5/25
Sau khi khảo sát, phân loại từng đối tượng học sinh tôi đã đề ra kế hoạch dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh , để từ đó phát triển được năng lực viết văn miêu tả của học sinh , đồng thời giúp những em yếu biết vận dụng làm một bài văn miêu tả hoàn chỉnh.
Chẳng hạn: Học sinh năng khiếu viết được bài văn miêu tả đúng bố cục, có sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, tôi hướng dẫn thêm để học sinh biết sử dụng nhiều từ ngữ miêu tả giàu hình ảnh và sử dụng các biện pháp nghệ thuật vào bài để bài văn viết hay hơn.
Cụ thể: Đoạn tả con mèo: “Chú mèo rất nhanh nhẹn. Chú khoác trên mình bộ lông màu xám mượt như nhung. Cái đầu tròn tròn, hai tai vểnh lên trông thật đáng yêu. Đôi mắt sáng, con ngươi đưa đi đưa lại trông có vẻ tinh nhanh lắm. Cái đuôi cong cong như chiếc cầu vồng. Những ngón chân có móng vuốt sắc nhọn giúp chú bắt chuột rất tài…(bài viết của em Phạm Trúc Linh)
Tôi khen bài viết của em đã hay, đã biết sử dụng thêm các biện pháp nghệ thuật vào bài, cần sử dụng thêm các từ ngữ giàu hình ảnh để câu văn hay hơn. Tôi đa hướng dẫn em viết lại đoạn viết như sau:“Chú mèo rất nhanh nhẹn. Chú khoác trên mình bộ lễ phục màu xám mượt như nhung. Cái đầu tròn tròn, hai tai vểnh lên luôn như muốn nghe ngóng điều gì đó trông thật đáng yêu. Đôi mắt sáng long lanh như hai viên ngọc, trông có vẻ tinh nhanh lắm. Cái đuôi cong cong như chiếc cầu vồng trông thật đẹp mắt. Những ngón chân có móng vuốt sắc nhọn là thứ vũ khí lợi hại giúp chú bắt chuột rất tài…
Còn đối với học sinh yếu, tôi hướng dẫn bước đầu viết đúng và đủ bố cục bài văn miêu tả, dùng từ ngữ phù hợp, viết đúng chính tả.
Cụ thể: Nhà em có nuôi một con mèo lông nó màu trắng. Hai con mắt tròn, nó có bốn chân và cái đuôi. Nó có răng sắc nhọn. Em thích con mèo này. (bài viết của em Phạm Ngọc Sơn).
Tôi đã hướng dẫn để giúp học sinh viết lại đảm bảo bố cục. Trước tiên, tôi cho học sinh nhắc lại cấu tạo bài văn miêu tả con vật gồm mấy phần? (ba phần) và hệ thống cho học sinh từng phần viết như thế nào?(trình bày thành các đoạn)
Chẳng hạn: Mở bài: Giới thiệu con vật ở đâu? Ai nuôi?(Nhà em nuôi được một chú mèo trông rất đáng yêu.)
Thân bài: Tả ngoại hình: Bộ lông thế nào?(Bộ lông màu xám tro, rất mượt), Hai mắt ra sao? (Hai mắt sáng và tinh nhanh) Tai như thế nào? (Tai vểnh lên để nghe ngóng điều gì đó. Mỗi khi có tiếng động nhẹ là chú phát hiện ngay) Bốn chân như thế nào?(Bốn chân thon thon và rất nhanh nhẹn, đi lại nhẹ nhàng như lướt trên mặt đất…….)
Tả hoạt động: Bắt chuột thế nào?(Sau mỗi bữa ăn là chú ra sân phơi nắng, nghỉ ngơi, hễ có chú chuột nào là chú mèo nhảy ra vồ ngay)
Kết bài: Cảm nghĩ của em về con vật? ( Em rất thích chú mèo này. Nhờ có chú mà nhà em đã hết chuột phá hoại. Em sẽ chăm sóc chú thật tốt.)
2.2. Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả( đồ vật, con vật, cây cối,…)
Để các em có thể vẽ lại được cụ thể, sinh động mọi vật trong đời sống hằng ngày, các em cần phải quan sát cụ thể vật đó: Quan sát phải kết hợp sử dụng nhiều giác quan (mắt – nhìn, tai – nghe, mũi – ngửi, tay – sờ…) để thu nhận được càng nhiều chi tiết thì bài văn miêu tả càng giống với đối tượng miêu tả; quan sát theo trình tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ tổng quát đến cụ thể rồi ghi chép lại vào sổ tay văn học của mình để từ đó biết vận dụng để viết văn.
* Nếu tả đồ vật: cần quan sát bao quát đồ vật, rồi quan sát tỉ mỉ từng phần của đồ vật theo trình tự hợp lí từ ngoài vào trong.
Ví dụ: Tả chiếc cặp: quan sát bao quát cặp có hình thù như thế nào ? Màu sắc gì ? quan sát từng phần đồ vật từ ngoài vào trong, đặc biệt quan sát các bộ phận có đặc điểm nổi bật như: phía trước cặp được trang trí như thế nào? Sau cặp có những bộ phận gì ?(quai cặp, dây đeo) . Quan sát bên trong (cặp có mấy ngăn?), dùng tay sờ vào từng ngăn cặp có cảm giác như thế nào?
* Nếu tả cây cối: cần quan sát kĩ từng bộ phận của cây hay từng thời kì phát triển của cây và ích lợi của cây.
Ví dụ: Tả cây ổi : Quan sát kĩ các bộ phận (thân, gốc, cành, lá, hoa, quả…) hay từng thời kì phát triển của cây (cây non, cây lớn lên và cây trưởng thành cho quả…) và ích lợi của cây (cho quả, tăng thu nhập cho gia đình….)Ngoài ra cần sử dụng thêm các giác quan khác như mũi ngửi thấy mùi của quả ổi như thế nào?, tay sờ thấy vỏ cây, quả như thế nào? Và lưỡi nếm vị của quả ra sao?…
* Nếu tả con vật: cần quan sát kĩ đặc điểm ngoại hình (bộ lông, mắt, mũi, chân, đuôi…), thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của nó.
Ví dụ: Tả con mèo: quan sát con mèo to cỡ nào ? lông màu gì ? đôi mắt thế nào? bộ ria ra sao? chân to hay nhỏ, đuôi thế nào ? Thói quen của chú mèo ? Hoạt động chính (tìm mồi, bắt chuột). Tôi còn hướng dẫn kĩ cho học sinh sử dụng những giác quan khác nữa để quan sát con vật như tay thì sờ vào bộ lông cảm thấy thế nào? Tai để nghe tiếng kêu của mèo ra sao?…
Đối với việc quan sát, học sinh được học cụ thể một tiết “Luyện tập quan sát” Giáo viên tổ chức tiết học này thật kĩ và kèm theo hệ thống câu hỏi định hướng để học sinh biết cách quan sát phát hiện những đặc điểm riêng, phân biệt đối tượng miêu tả này với đối tượng khác và quan sát thật hiệu quả. Tổ chức cho học sinh quan sát theo nhiều hình thức: tranh ảnh, vật thật như quan sát đồ chơi (vật thật) quan sát con vật (tranh ảnh hoặc quan sát con vật trước ở nhà).
2.3. Hướng dẫn sử dụng vốn từ ngữ và lựa chọn từ ngữ miêu tả
Để giúp học sinh viết văn miêu tả tốt, đòi hỏi phải cung cấp cho các em lượng vốn từ phong phú, hiểu được nghĩa của từ, nhận biết được từ địa phương, từ cùng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ nhiều màu sắc biểu cảm…Để đáp ứng được nhu cầu như vậy, tôi đã giúp cho học sinh tích lũy vốn từ và biết lựa chọn từ miêu tả phù hợp. Khi dạy các bài Tập đọc, giúp cho học sinh hiểu nghĩa một số từ có trong bài, học sinh nắm được nội dung và nghệ thuật của bài đó và cảm nhận được cách sử dụng ngôn từ và hình ảnh của mỗi tác giả khi miêu tả các đồ vật, con vật, cây cối,…
Ví dụ: Bài “Đôi giày ba ta màu xanh” (sách Tiếng Việt trang 81) Tôi chỉ cho học sinh thấy, tác giả sử dụng câu văn miêu tả đôi giày ( miêu tả đồ vật): “ Cổ giày ôm sát chân. Thân giày làm bằng vải cứng, dáng thon thả, màu vải như màu da trời những ngày thu”. Tác giả đã dùng từ ngữ giàu hình ảnh và sử dụng phép nghệ thuật so sánh để tô thêm vẻ đẹp cho đôi giày.
Ví dụ: Bài “ Con chuồn chuồn nước” (sách Tiếng Việt trang 127) Tác giả đã sử dụng câu văn miêu tả con chuồn chuồn ( miêu tả con vật) : ”Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu. Bốn cánh khẽ rung rung như đang còn phân vân”. Tác giả đã sử dung hình ảnh so sánh để miêu tả chú chuồn chuồn một cách sinh động, hấp dẫn.
Không những phân môn Tập đọc mà còn các phân môn khác như : Luyện từ và câu cũng giúp cho học sinh mở rộng vốn từ cho mình như các bài: Mở rộng vốn từ theo chủ điểm, các em cũng lĩnh hội thêm được một ít từ ngữ .
Bên một cạnh đó, học sinh đọc thêm các bài tham khảo cần phải biết học tập cách miêu tả và chọn lọc số từ ngữ miêu tả hay. Từ đó học sinh bổ sung được vốn từ ngữ cho mình. Đặc biệt là học sinh cần phải biết tích lũy vốn từ qua thực tế cuộc sống hằng ngày ví dụ như nghe và ghi nhớ tiếng kêu của con mèo(meo…meo), Tiếng gáy của con gà(ò..ó..o), tiếng sủa của con chó(gâu..gâu) …
Ngoài ra, tôi còn giới thiệu thêm một số từ, ngữ cần thiết để làm giàu thêm vốn từ cho học sinh.
Chẳng hạn:
Tả con vật ( Chú khoác lên mình bộ áo đẹp; đầu tròn, mắt sáng và tinh nhanh, tai vểnh lên để nghe ngóng, chân nhanh nhẹn, đi lại rất nhẹ nhàng , móng vuốt sắc nhọn là vũ khí tự vệ và rất lợi hại, khi kiếm được mồi, chú mang về cho con cùng ăn …)
Tả cây cối ( Thân cây to xù xì, rễ cây ăn sâu xuống lòng đất, cành đâm ra tua tủa, hoa kết lại từng chùm, quả treo lúc lỉu trên cành, hương thơm ngào ngạt….)
Từ vốn từ mà học sinh đã tích lũy được, tôi hướng dẫn cho học sinh lựa chọn từ ngữ, hình ảnh khi miêu tả, sử dụng cho phù hợp. Khi trình bày kết quả quan sát được hoặc khi học sinh luyện viết đoạn, tôi đã uốn nắn, chỉ chỗ sai cho học sinh ngay khi phát hiện học sinh dùng chưa đúng
Ví dụ: Thân cây to phình ra, như một người khổng lồ. (sử dụng từ không phù hợp)
Sửa lại: Thân cây cao, to, vừa một vòng tay của em.
Ví dụ: Khi em sờ tay vào thấy tay ram ráp.(sử dụng từ không phù hợp)
Sửa lại: Khi em sờ tay vào em thấy vỏ cây sần sùi.
2.4. Hướng dẫn sử dụng các biện pháp nghệ thuật và bộc lộ cảm xúc.
Sau khi hướng dẫn học sinh lựa chọn từ ngữ phù hợp để miêu tả cần hướng dẫn học sinh biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa vào bài để giúp cho học sinh làm được bài văn hay hơn, sinh động hơn, lôi cuốn người đọc, đồng thời bộc lộ cảm xúc của mình để thấy đồ vật, con vật, cây cối thân thiết và gần gũi với mình hơn.
Để học sinh vận dụng được, tôi giúp các em tìm hiểu kĩ tiết : Luyện tập miêu tả các bộ phận, tổ chức cho học sinh trình bày, luyện cho học sinh nói, viết những câu có hình ảnh và sử dụng phép nghệ thuật đồng thời bộc lộ cảm xúc của mình.
Ví dụ: Miêu tả về thói quen của con mèo (Bài làm của em Vũ Ngọc Phương Loan)
“Bữa nào chú cũng được ăn cơm với cá. Chú ăn hết bát cơm to, rồi lại nhởn nhơ liếm mép. Bữa bữa, chú nhìn chăm chú mọi người ăn cơm, cái đầu cứ lắc lắc theo từng đôi đũa khi mọi người gắp thức ăn. Trông chú như đang đói và thèm ăn lắm”.
Ví dụ : Tả ngoại hình con mèo –(Bài làm của em Nguyễn Ngọc Anh Thư)
“Lông mèo mượt như tơ. Đầu nó tròn tròn bên trên có hai cái tai dựng đứng, hết quay phía này lại quay phía khác để nghe ngóng. Hai con mắt nó mới sáng làm sao, ở ngoài sáng mắt chú xanh biếc, trong đêm tối mắt nó lấp lánh như ánh lửa”.
Hướng dẫn học sinh biết kết hợp sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh đồng thời biết vận dụng các biện pháp nghệ thuật trong câu văn để từ đó học sinh viết bài hoàn chỉnh hơn
2.5. Hướng dẫn tìm ý và lập dàn bài trong mỗi bài văn miêu tả.
Tôi đã định hướng cho học sinh đọc kĩ đề, xác định thể loại, kiểu bài, xác định nội dung tả gì? thể hiện tư tưởng tình cảm gì vào bài? Đối với mỗi bài văn miêu tả, quan sát đối tượng được miêu tả là cơ sở để học sinh tìm ý. Sau khi học sinh đã quan sát và có những ghi chép chi tiết về đối tượng miêu tả, tôi hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn của mình dựa vào hình ảnh đã quan sát và lựa chọn hình ảnh để lập dàn ý cho bài văn. Một bài văn hoàn chỉnh là bài văn phải có cách sắp xếp chặt chẽ. Mặc dù mở bài, thân bài, kết bài là ba phần riêng song chúng phải có sự thống nhất về ý.
* Mở bài: Giới thiệu đối tượng định miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật). Phần mở bài phải hấp dẫn, gợi mở, gây được những ấn tượng ban đầu và nêu được ý muốn diễn đạt ở phần thân bài( giới thiệu được đối tượng cần nói đến ở thân bài).
Ta có thể dùng cách mở bài trực tiếp (giới thiệu ngay đối tượng) hoặc mở bài gián tiếp(nói chuyện khác liên tưởng giới thiệu đối tượng).
Ví dụ: Tả cái ti vi
Chiếc ti vi này là người bạn thân thiết với gia đình em gần hai năm nay. (Mở bài trực tiếp-Bài làm của em Trần Khánh Chi)
Em rất yêu gia đình em, ngôi nhà của Em. Ở đó, có bố mẹ và chị gái thân thương, có những đồ vật, đồ chơi thân quen và một góc học tập sáng sủa. Nổi bật trong phòng khách nhà em đó là cái ti vi rất to được kê trên một chiếc tủ gỗ xinh xắn .( Mở bài gián tiếp- Bài làm của em Nguyễn Vũ Diệu Hương)
* Thân bài: +Tả đồ vật: Tả bao quát đồ vật rồi đến tả những bộ phận có đặc điểm nổi bật và nêu công dụng.
+Tả cây cối: Tả từng bộ phận của cây hoặc từng thời kì phát triển của cây và ích lợi của cây.
+Tả con vật: Tả ngoại hình rồi đến thói quen sinh hoạt của con vật và hoạt động chính của con vật.
Phần thân bài chính là phần trọng tâm của một bài văn. Một bài văn có phần mở đầu và kết thúc hay nhưng phần thân bài chưa đủ ý,chưa đầy đủ các yêu cầu được đặt ra ở phần đề bài thì chưa phải là một bài văn hay. Để khắc phục khuyết điểm này, khi lập dàn ý của bài văn, chúng ta cần tách phần thân bài thành các ý lớn cho đầy đủ, rồi từ các ý đó, viết thành các đoạn văn hoàn chỉnh.
* Kết bài: Nêu cảm nghĩ, ấn tượng, tình cảm của mình với đối tượng miêu tả.
Khi viết phần kết bài, cần hướng dẫn học sinh viết thật cô đọng, ngắn gọn và súc tích, tránh kết thúc một cách đơn điệu, tẻ nhạt và cộc lốc. Kết bài chính là kết lại, khép lại nội dung vừa trình bày ở phần thân bài.
Ta có thể dùng 2 cách kết bài: Kết bài không mở rộng (Cho biết kết thúc, không có lời bình luận thêm) và kết bài mở rộng (nói lên tình cảm, cảm xúc của mình, liên tưởng và có thêm lời bình luận ).
Ví dụ:Tả cái bàn học
Nhờ có chiếc bàn học này mà em học tập tốt hơn. Em rất thích cái bàn này, em sẽ lau cho chiếc bàn luôn sạch sẽ. (Kết bài không mở rộng – Bài làm của em Đoàn Trà My )
Chiếc bàn học là một báu vật quý giá của em. Chiếc bàn luôn đồng hành cùng em trong những lúc em học bài,…Mai đây, em sẽ lớn lên, có thể đi đến bất cứ nơi nào, song chiếc bàn học sẽ luôn nhắc nhở em về những kí ức đẹp đẽ của tuổi học trò. (Kết bài mở rộng-Bài làm của em Phạm Khánh Ly.)
Ví dụ: Tả một con vật mà em yêu thích
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề và hướng dẫn một số câu hỏi: đề bài yêu cầu gì? Em chọn con vật nào để tả? con vật ấy có đặc điểm gì? Từ đó học sinh bám vào yêu cầu đề, sử dụng vốn từ và dựa vào kết quả quan sát được, lựa chọn những nét nổi bật của đối tượng để miêu tả rõ ràng và đầy đủ.
Dàn ý:
* Mở bài: Con chó là con vật em yêu thích
* Thân bài:
+ Hình dáng không to lắm, trông rất đáng yêu.
+ Bộ lông: màu trắng rất xinh xắn.
+ Hai mắt: đen láy, long lanh như viên ngọc rất nghịch và thông minh.
+ Mũi: màu đen nhỏ.
+ Hai tai: cụp xuống trông rất ngộ nghĩnh.
+ Đuôi : cong cong như chiếc cầu vồng luôn ve vẩy sau lưng.
+ Bốn chân đi nhanh nhẹn như lướt trên mặt đất.
+ Tả hoạt động: coi nhà rất giỏi, vẫy đuôi tíu tít khi em đi học về.
* Kết bài: em rất yêu thích chú chó và em sẽ chăm sóc chú cẩn thận .
2.6. Hướng dẫn nhận xét, đánh giá và chữa bài
Mỗi dạng bài đều có một tiết trả bài văn viết, tiết này rất quan trọng nhằm giúp các em thấy được ưu điểm và nhược điểm trong bài viết của mình, của bạn để học hỏi, trao đổi lẫn nhau, tìm ra cách sửa sai để cùng tiến bộ và qua đó tôi biết được học sinh hiểu bài và vận dụng thế nào.
* Đánh giá, nhận xét: Tôi tiến hành chấm bài thật kĩ, xác định học sinh làm đúng bố cục hay chưa? và bố cục có chặt chẽ không? Tôi phát hiện những ưu điểm của bài văn hay, câu hay, ý hay, dùng từ sáng tạo…và nắm được những lỗi mắc phải còn tồn tại: dùng từ chưa chính xác, câu văn chưa hoàn chỉnh, lặp từ, lặp ý…Tôi đánh giá, nhận xét cụ thể vào từng bài của học sinh
Chẳng hạn có những nhận xét như sau :
– Bài văn hay, diễn đạt rõ ràng, bố cục chặt chẽ, lời văn súc tích, có nhiều hình ảnh hay trong bài, biết vận dụng từ ngữ hay, có sử dụng biện pháp nghệ thuật. Em cần phát huy thêm.(học sinh năng khiếu)
– Bài viết đủ ý, viết thành câu. Em cần sử dụng phép so sánh, nhân hóa vào bài để bài văn hay hơn.(học sinh trung bình)
– Bài viết còn lủng củng, bố cục chưa rõ ràng, dùng từ ngữ chưa phù hợp còn sai lỗi chính tả, viết chưa thành câu. Em cần chú ý để về nhà viết lại đúng em nhé.(học sinh yếu)
Trong quá trình đánh giá, tôi chọn bài tiêu biểu của lớp và các bài văn hay năm trước đọc cho học sinh nghe và phân tích những điểm hay để học sinh học tập.
* Chữa bài: tôi hướng dẫn cho học sinh chữa lỗi
+ Chữa lỗi về dùng từ và sai chính tả: Đưa câu văn của học sinh dùng từ thiếu chính xác rồi giáo viên gợi mở để học sinh sửa lại câu đúng.
Ví dụ: từ ngữ sai: Tả con vật
Mắt nó dựng ngược mắt chú xếch ngược trông rất hung dữ
Chân nó nhanh thăn thắt chân nhanh thoăn thoắt
Hai mắt tròn xeo nong nanh như hai viên ngọc. hai mắt tròn xoe long lanh như hai viên ngọc.
Tai rât tinh tai rất thính.
+ Chữa lỗi về câu:
– Học sinh viết chưa thành câu: Có lá xum xuê, rễ mọc dưới đất Lá cây xum xuê. Rễ ăn sâu vào lòng đất.
– Sử dụng dấu câu sai:
+ Chữa lỗi về diễn đạt
Ví dụ: Tả đồ vật
– Cái bút thon nhỏ và dài bằng gang tay của em.
Cây bút dài bằng gang tay của em. Ngòi bút nhọn, khi viết nét chữ thật đều và đẹp.
+Chữa lỗi lạc đề:
III. HIỆU QUẢ ĐỀ TÀI:
Năm học 2018-2019 tôi chưa áp dụng đề tài này, tôi tiến hành khảo sát một bài văn miêu tả đồ vật của lớp 4 như sau:
Số bài Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5
26 3/25 10/25 11/25 2/25

Qua kết quả bài làm, tôi nhận thấy số lượng học sinh khá, giỏi rất ít. Phần lớn học sinh cũng có chú trọng đến bố cục bài văn miêu tả. Tuy nhiên khi các em quan sát chưa kĩ cho nên khi tả các em chưa làm nổi bật đồ vật miêu tả và kĩ năng dùng từ viết câu cũng còn hạn chế. Những bài văn dưới điểm 5 lí do các em chưa đảm bảo bố cục, viết câu lủng củng, chọn lựa từ ngữ chưa phù hợp.
Năm học 2018-2019, tôi đã vận dụng những biện pháp nêu trên cùng với sự nổ lực cố gắng của các em học sinh, tôi tiến hành khảo sát một bài văn miêu tả đồ vật đã cho kết quả như sau:
Lớp 4C
Số bài Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5
25 9/25 11/25 4/25 1/25
Nhìn chung, các em trong lớp đã viết được bài văn miêu tả đồ vật, đảm bảo bố cục, lời văn mạch lạc, đặc biệt đã có nhiều em viết bài giàu hình ảnh, sử dụng câu văn sáng tạo, và nhiều câu đã sử dụng phép nghệ thuật làm cho bài văn sinh động hơn, hay hơn. Tuy nhiên vẫn còn 1 em dưới điểm 5 là vì em viết còn sai lỗi chính tả và chữ viết của em chưa rõ ràng.
Không những thế khi học đến những bài văn miêu tả con vật và cây cối thì kết quả được nâng cao dần. Số lượng các em đạt khá, giỏi tăng rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập hơn. Trong giờ học các em tập trung hơn, say sưa cùng bạn bè quan sát đối tượng cần miêu tả. Tôi rất vui khi thấy có khá nhiều học sinh đã có cuốn sổ tay riêng để ghi những điều quan sát được và những câu văn hay, từ ngữ gợi tả, gợi cảm,…Có thể nói rằng học sinh đã không còn ngại khi học văn miêu tả. Học sinh dùng từ chính xác, sử dụng từ hay biết viết thành câu, kĩ năng viết văn có tiến bộ, nhiều em viết hay được chọn làm bài mẫu để đọc trước lớp. Thể loại văn miêu tả được các em thích hơn.
Học sinh có tinh thần hợp tác, biết tôn trọng lắng nghe ý kiến của bạn bè mình và mạnh dạn nhận xét về bài làm của bạn hơn
IV. KẾT LUẬN
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong quá trình giảng dạy, mỗi người giáo viên phải không ngừng học hỏi, sáng tạo , đem hết khả năng và niềm đam mê, lòng nhiệt huyết cho công tác thì mới có được kết quả như mong muốn. Việc dạy Tập làm văn nhất là văn miêu tả lớp 4 thì việc làm này càng cần thiết hơn. Thực tế giảng dạy lớp 4 trong nhiều năm, tôi thấy để nâng cao chất lượng dạy học Tập làm văn, ngoài hệ thống bài tập (yếu tố cơ bản, cần thiết) người giáo viên cần phải tìm hiểu kĩ đối tượng học sinh, hiểu đặc điểm tâm lý của các em. Hiểu và nắm chắc đặc điểm, yêu cầu của văn miêu tả. Học tốt các phân môn còn lại vì phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp kĩ năng kiến thức của tất cả các phân môn thuộc môn Tiếng Việt. Mặt khác người giáo viên cần phải chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp. Trong giờ dạy, tuỳ thuộc vào nội dung từng phần, giáo viên nên đọc cho các em nghe các câu văn, câu thơ có sử dụng các biện pháp nghệ thuật, cung cấp cho các em những đoạn văn mẫu giúp các em mở rộng vốn từ, mở rộng vốn hiểu biết để từ đó học tập,vận dụng vào bài làm của mình. Giáo viên cần coi tiết trả bài không thể thiếu của quá trình hoạt động, đó chính là khâu kiểm tra đánh giá nhằm điều chỉnh cho những hoạt động tiếp theo. Trả bài là tiết học mà giáo viên giành nhiều thời gian để sửa lỗi cho học sinh, giúp các em tiến bộ hơn. Với học sinh lớp 4, các em không thể ngay lập tức có những câu văn, đoạn văn hay mà phải là kết quả của một sự rèn luyện liên tục, thường xuyên. Việc rèn kĩ năng làm văn vừa để nhằm mục đích nâng cao ý thức tự rèn luyện của học sinh. Và đó cũng chính là điều thúc đẩy tôi nghiên cứu và hoàn thành đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Cách rèn cho học sinh lớp 4 viết văn miêu tả”.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến chân tình của các bạn bè đồng nghiệp và của các bậc thầy, cô kinh nghiệm hướng dẫn, giảng dạy bộ môn, phân môn đạt được kết quả tốt đẹp hơn nữa, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh, đáp ứng với mục tiêu đào tạo của ngành giáo dục hiện nay.
Đây là những kinh nghiệm bản thân tôi đã rút ra trong quá trình giảng dạy của mình. Với những suy nghĩ và giải pháp nêu trên trong những năm qua ít nhiều cũng đã giúp tôi dạy tốt phân môn Tập làm văn lớp 4.
Nam Thanh, ngày 25 tháng 4 năm 2019
   Người viết
         

                                                                                          Nguyễn Thị Ngọc Thúy